
Tin nóng:
Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ sáu 21/03/2025 14:01
Tin nóng:
Nền móng cho chuỗi giá trị nông sản
Thái Nguyên từ lâu đã được biết đến là “đệ nhất danh trà” với danh tiếng từ những vùng chè Tân Cương, La Bằng, Trại Cài… Song thực tế cho thấy, không chỉ chè, nhiều đặc sản khác như nhãn, na, bưởi, hồng không hạt, mơ vàng… cũng đang đối diện thách thức lớn nếu thiếu một vùng nguyên liệu ổn định và bền vững.
Việc hình thành vùng nguyên liệu tập trung không chỉ giúp doanh nghiệp, hợp tác xã yên tâm về đầu vào, từ giống, chất lượng đến khối lượng mà còn tạo nền tảng để bà con nông dân, đặc biệt là bà con đồng bào dân tộc thiểu số, tránh rủi ro “được mùa mất giá”, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm.
Thái Nguyên chú trọng phát triển vùng nguyên liệu chè (Ảnh: Hải Minh)
Thống kê cho thấy, đến nay tỉnh đã hình thành gần 20.000 ha vùng nguyên liệu tập trung, chủ yếu ở các cây trồng chủ lực như chè, nghệ, dong riềng, cây ăn quả, rau màu. Trong đó, cây ăn quả đặc sản chiếm khoảng 5.000 ha với các giống nổi bật: hồng không hạt, na, nhãn, bưởi, mơ vàng… Riêng cây chè, diện tích toàn tỉnh đạt trên 19.000 ha, nhiều vùng đã áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ, cấp mã vùng trồng và truy xuất nguồn gốc. Nhiều sản phẩm đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số đã và đang khẳng định vai trò trên thị trường.
Mô hình hợp tác xã đang đóng vai trò “hạt nhân” để gắn kết sản xuất. HTX Chè La Bằng (Đại Từ) hiện quản lý 30 ha chè, trong đó có 10 ha đạt chứng nhận VietGAP và 17 ha hữu cơ. Đặc biệt, toàn bộ diện tích đều được cấp mã số vùng trồng, giúp sản phẩm đủ điều kiện tham gia các chuỗi cung ứng lớn trong và ngoài nước. Đây là hướng đi giúp chè Thái Nguyên không chỉ dừng lại ở danh trà trong nước mà còn trở thành mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Mặc dù đã hình thành những vùng sản xuất quy mô, Thái Nguyên vẫn đối mặt nhiều khó khăn. Trước hết là diện tích nhỏ lẻ, manh mún; nhiều diện tích trồng cây ăn quả chưa đồng bộ về giống, kỹ thuật, khiến chất lượng sản phẩm chưa cao. Công nghệ bảo quản và chế biến còn hạn chế, nhất là với quả tươi như na, nhãn, hồng, dẫn tới tỷ lệ hao hụt lớn, giảm giá trị.
Na dai là đặc sản nổi tiếng của vùng đồng bào dân tộc xã Võ Nhai
Một thách thức khác là liên kết sản xuất chưa chặt chẽ. Ở nhiều nơi, nông dân vẫn tự phát trong sản xuất, thiếu hợp đồng bao tiêu ổn định. Trong khi đó, yêu cầu của thị trường ngày càng cao: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ, có truy xuất nguồn gốc. Nếu thiếu sự liên kết, việc nâng tầm đặc sản Thái Nguyên sẽ khó bền vững.
Cuối cùng, thương hiệu và thị trường vẫn là điểm nghẽn. Nhiều sản phẩm chưa được quảng bá rộng rãi, bao bì, nhãn mác còn đơn giản, chưa tạo được dấu ấn riêng. Điều này khiến giá bán chưa tương xứng với giá trị thực.
Nỗ lực tháo gỡ khó khăn
Để giải quyết khó khăn, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành hàng loạt chính sách hỗ trợ. Nghị quyết số 08/2025 của HĐND tỉnh quy định nhiều nội dung quan trọng: hỗ trợ chi phí giống, phân bón hữu cơ, chứng nhận VietGAP, hữu cơ; hỗ trợ cấp mã vùng trồng, mua máy móc thiết bị chế biến chè; hỗ trợ quảng bá thương hiệu và phát triển sản phẩm OCOP.
Ngoài ra, tỉnh khuyến khích xây dựng các vùng nguyên liệu mẫu gắn liền với doanh nghiệp và hợp tác xã. Nhiều doanh nghiệp lớn đã liên kết sản xuất hàng chục ha với hộ dân để đảm bảo sản lượng ổn định. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển chuỗi giá trị, từ trồng trọt - chế biến - tiêu thụ.
Công nghệ hiện đại cũng đang được ứng dụng rộng rãi. Các mô hình tưới tự động, quản lý môi trường vườn, truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, chuyển đổi số trong quản lý sản xuất đã được triển khai ở nhiều vùng chè và cây ăn quả. Những giải pháp này giúp giảm chi phí, nâng cao năng suất và tạo niềm tin với thị trường.
Thái Nguyên nỗ lực xây dựng thương hiệu cho sản phẩm địa phương (Ảnh: Báo Thái Nguyên)
Đối với những sản phẩm mang dấu ấn của đồng bào dân tộc thiểu số như chè vùng cao, hồng không hạt, na Võ Nhai, nhãn Đại Từ, mơ vàng Phú Lương… việc xây dựng vùng nguyên liệu bền vững càng mang ý nghĩa quan trọng. Đây không chỉ là câu chuyện kinh tế mà còn gắn với bảo tồn văn hóa, giữ gìn bản sắc của cộng đồng.
Trước hết, tỉnh xác định quy hoạch vùng chuyên canh rõ ràng, chọn giống phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu. Toàn bộ diện tích nên được định hướng theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ để dễ dàng truy xuất nguồn gốc.
Bên cạnh đó, tăng cường liên kết “4 nhà” - Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học, nông dân. Doanh nghiệp và hợp tác xã phải thực sự là cầu nối, đảm bảo bao tiêu sản phẩm, cung cấp giống, vốn và kỹ thuật cho bà con.
Đẩy mạnh đầu tư cơ sở sơ chế, chế biến sâu và kho bảo quản ngay tại vùng sản xuất. Đây là điểm yếu lâu nay khiến sản phẩm mất giá trị sau thu hoạch. Chỉ khi có nhà máy chế biến, sản phẩm mới có thể đi xa, vào được hệ thống siêu thị hoặc xuất khẩu.
Ngoài ra, chú trọng phát triển thương hiệu. Sản phẩm không chỉ mang nhãn “OCOP 3 sao, 4 sao” mà cần có tên gọi riêng gắn với vùng đất, văn hóa bản địa. Khi đó, người tiêu dùng trong và ngoài nước mới dễ dàng nhận diện, phân biệt và sẵn sàng trả giá cao hơn.
Xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu chính là chìa khóa để nâng cao giá trị sản phẩm nông sản của Thái Nguyên. Đây không chỉ là nhu cầu cấp thiết của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, mà còn là chiến lược dài hạn để đưa chè, hồng không hạt, na, nhãn, mơ vàng và nhiều đặc sản khác vươn xa.
Nếu có sự đồng hành của doanh nghiệp và nông dân, những sản phẩm mang đậm bản sắc Thái Nguyên sẽ không chỉ góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn trở thành thương hiệu mạnh trên thị trường.