
Tin nóng:

Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ sáu 21/03/2025 14:01
Tin nóng:
Du lịch và tiêu thụ sản phẩm: Mối quan hệ cộng sinh hai chiều
Theo TS. Nguyễn Minh Phong, phát triển du lịch và tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc thiểu số không chỉ có mối quan hệ hai chiều, mà còn là mối quan hệ cộng sinh đặc biệt, trong đó “mỗi yếu tố vừa nuôi dưỡng, vừa gia tăng giá trị cho yếu tố còn lại”.
Ông phân tích: “Các sản phẩm đặc trưng của vùng dân tộc thiểu số không chỉ là hàng hóa mà còn là tài nguyên du lịch vô cùng quý giá, kết tinh từ thiên nhiên, lối sống và văn hóa bản địa. Khi du khách đến, họ không chỉ mua hàng mà còn được nghe chính người dân kể câu chuyện đằng sau sản phẩm. Người bán hàng trở thành người kể chuyện, người trao truyền văn hóa - điều mà du lịch hiện đại đặc biệt cần”.

Du lịch thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc
Theo chuyên gia, sự tương tác này tạo nên một hệ sinh thái du lịch - tiêu dùng giàu tính trải nghiệm, giúp người dân không chỉ có thu nhập mà còn giữ chân được lao động trẻ ở lại bản làng, sử dụng tài nguyên hiệu quả và quảng bá văn hóa vùng miền.
“Du lịch đến đâu, sản phẩm địa phương sống dậy đến đó. Mỗi chiếc khăn, mỗi thảo dược, mỗi món ăn đều chứa đựng một phần hồn văn hóa dân tộc. Nếu được quản lý và khai thác đúng cách, đây sẽ là kênh quan trọng để phát triển kinh tế vùng miền, đảm bảo sự công bằng trong tăng trưởng và nâng cao chất lượng sống của người dân”, ông nhấn mạnh.
TS. Nguyễn Minh Phong cũng cho rằng Việt Nam có lợi thế đặc biệt khi sở hữu 54 dân tộc với hệ sinh thái văn hóa - du lịch phong phú, nhưng “trong khi chúng ta đứng thứ 25 thế giới về tài nguyên du lịch, thì chỉ xếp khoảng thứ 75 về năng lực cạnh tranh du lịch”. Việc gắn du lịch với tiêu thụ sản phẩm vùng miền sẽ là đòn bẩy để rút ngắn khoảng cách này, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và du lịch xanh.
Tuy nhiên, chuyên gia cũng cảnh báo: “Khi du lịch trở thành kênh tiêu thụ, nguy cơ thương mại hóa và mất bản sắc là có thật”.
Theo ông, điều này xảy ra khi cầu vượt cung, khi khách du lịch quá đông khiến văn hóa bản địa bị “pha loãng”, hoặc khi đồng tiền khiến hành vi ứng xử mất đi sự trong sáng. “Ngày xưa đến vùng dân tộc, chỉ cần gọi trẻ con lại chụp ảnh, cho viên kẹo là vui. Nay có nơi phải trả tiền, khiến mối quan hệ tự nhiên giữa người và người dần biến thành mua bán”, ông nói.
Để giải quyết vấn đề này, TS. Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh vai trò quản lý của Nhà nước trong quy hoạch và định hướng phát triển du lịch vùng dân tộc. “Cần có quy hoạch phù hợp với sức chứa của địa phương, đảm bảo cân bằng cung - cầu và không để hiện tượng đồng hóa văn hóa. Song song, phải xây dựng các tiêu chí rõ ràng để văn hóa bản địa trở thành nền tảng cho mọi hoạt động du lịch”.
Ông đề xuất Nhà nước ban hành bộ tiêu chí và cơ chế hỗ trợ tài chính, hạ tầng, đào tạo dựa trên việc đáp ứng chuẩn văn hóa - du lịch của từng dự án. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương và doanh nghiệp cần phối hợp xây dựng bộ sản phẩm du lịch - hàng hóa có nguồn gốc, thương hiệu rõ ràng, tránh tình trạng thu gom, làm giả, làm nhái gây ảnh hưởng hình ảnh vùng miền.
“Điều quan trọng là phải đào tạo người dân trở thành chủ thể thực thụ trong phát triển du lịch. Họ không chỉ là người biểu diễn hay bán hàng, mà là người kể chuyện, người giữ hồn văn hóa, góp phần lan tỏa bản sắc dân tộc trong từng sản phẩm”, ông nhấn mạnh.
Công nghệ số: “Chiếc cầu” nối bản làng với thế giới
Nhìn nhận trong bối cảnh hội nhập, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số đang mở ra cơ hội vàng để kết nối sản phẩm vùng dân tộc với du lịch thông minh, du lịch quốc tế và du lịch xanh.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số đang mở ra cơ hội vàng để kết nối sản phẩm vùng dân tộc với du lịch thông minh
Ông phân tích: “Công nghệ số giúp rút ngắn khoảng cách giữa bản làng và thế giới. Người dân không còn phải đi xa, không phải đầu tư tốn kém để quảng bá sản phẩm. Chỉ với điện thoại thông minh và mạng xã hội, họ đã có thể giới thiệu đặc sản quê mình tới hàng triệu người”.
Theo ông, để tận dụng cơ hội này, cần xây dựng danh mục sản phẩm số hóa, chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, có mã định danh, mã QR và đảm bảo chất lượng. “Khi đã có bộ danh mục này, sản phẩm vùng dân tộc sẽ được đưa lên sàn thương mại điện tử, tăng độ tin cậy và nhận diện thương hiệu”.
Chuyên gia cũng đề cập tới việc phát triển chuỗi sản phẩm theo vùng văn hóa tương đồng, tạo sức hấp dẫn và tương hỗ trong phát triển. Cùng với đó là xây dựng các nền tảng “bản làng số”, cổng thông tin du lịch xanh, nơi khách có thể tìm hiểu, đặt dịch vụ và kết nối trực tiếp với người dân, không qua trung gian.
“Hiện đã có nhiều thanh niên vùng cao tự livestream bán sản phẩm, thu hút cả khách nước ngoài. Đó là những tín hiệu rất tích cực cần được khuyến khích”, ông nói.
Để đạt hiệu quả bền vững, TS. Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh mô hình “bốn nhà”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà trường - Người dân.
“Nhà nước làm hạ tầng, định hướng và hỗ trợ tài chính; doanh nghiệp xây dựng sản phẩm, quảng bá thương hiệu; nhà trường đào tạo và nghiên cứu; còn người dân là chủ thể sáng tạo và kể chuyện về chính sản phẩm của mình.”
Ông cũng lưu ý, nền tảng thương mại số cần đa ngôn ngữ để tiếp cận thị trường mục tiêu, tiếng Anh cho khách châu Âu, tiếng Trung cho khách châu Á… “Đây là yếu tố không thể thiếu nếu chúng ta muốn bước ra thị trường quốc tế”, ông khẳng định.
Đề cập đến tầm nhìn dài hạn, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng để du lịch gắn với tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc trở thành động lực tăng trưởng bền vững, cần triển khai 4-7 nhóm giải pháp chiến lược.
Thứ nhất, xây dựng chương trình tích hợp đa ngành, đa địa phương về phát triển du lịch cộng đồng gắn với kinh tế bản địa. Chương trình này nên được triển khai dài hạn (5-10 năm), cụ thể hóa tới từng bản làng, sản phẩm và vùng văn hóa, ví dụ như “Tinh hoa Tây Bắc”, “Sắc màu Tây Nguyên”, “Hoa trái Tây Nam Bộ”… để tạo thành những thương hiệu vùng mang tính nhận diện cao.
Thứ hai, phát triển các mô hình khu kinh tế - văn hóa - sinh thái bản địa, hay chuỗi giá trị du lịch gắn sản phẩm OCOP, với tiêu chí chuẩn hóa, bao bì, mã hóa truy xuất nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo tính chân thật và chống làm giả.
Thứ ba, xây dựng hệ sinh thái du lịch số gắn với các nền tảng và sàn thương mại điện tử quốc tế, kết nối sản phẩm địa phương với thị trường toàn cầu.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh liên kết “bốn nhà” và đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là người dân, để họ vừa làm kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc.
Cuối cùng, ông đề xuất thiết lập các cơ chế tôn vinh, ghi nhận, trao giải thưởng cho những địa phương và mô hình tiêu biểu nhằm khuyến khích phát triển du lịch - thương mại bền vững.
“Mỗi lần tôn vinh cũng là một dịp xúc tiến du lịch, xúc tiến thương mại. Quan trọng nhất là phải phát triển du lịch gắn với tiêu thụ sản phẩm, đồng thời bảo tồn giá trị văn hóa một cách sống động và chân thực nhất”, ông nói.
TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc - quốc gia đã phát triển mạnh mô hình du lịch bản địa.
Ông kể: “Khi tôi đi du lịch Trung Quốc, người hướng dẫn nói rằng phía trên có ‘rừng trên đá’ rất đặc biệt. Hóa ra chỉ là dòng suối có cây mọc trên đá, nhưng họ đã biết cách kể chuyện, tạo sự tò mò và thu hút du khách. Đó là nghệ thuật làm du lịch, biết khai thác cảm xúc và giá trị khác biệt”.
Khi du lịch và tiêu thụ sản phẩm trở thành một thể thống nhất, chúng không chỉ tạo sinh kế, mà còn giữ gìn văn hóa dân tộc và khẳng định vị thế Việt Nam trong bản đồ du lịch thế giới.