Tin nóng:

Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ sáu 21/03/2025 14:01
Tin nóng:
Ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á
Phát huy bản sắc văn hóa để tạo khác biệt
- Thưa ông, du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang trở thành xu hướng được nhiều du khách lựa chọn. Từ góc nhìn của một người nghiên cứu lâu năm về du lịch, ông cho rằng đâu là tiềm năng nổi bật nhất của loại hình này trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt trong việc gắn phát triển du lịch với tiêu thụ sản phẩm đặc trưng của đồng bào?
Ông Phạm Hải Quỳnh: Từ khi Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị năm 2017 xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, mô hình du lịch cộng đồng đã được chú trọng hơn. Trước đây, nhiều nơi chỉ làm homestay đơn lẻ, thiếu gắn kết. Giờ đây, cách tiếp cận đã khác: du lịch phải đi cùng với văn hóa, lấy văn hóa làm nền tảng và sự khác biệt làm sức hút.
Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng, từ nếp sống, nghề truyền thống đến nông sản đặc trưng. Khi gắn phát triển du lịch với sinh kế bản địa, tức là kết hợp giữa làm du lịch và khai thác những gì người dân đang có, giá trị tạo ra sẽ bền vững hơn.
Điểm hấp dẫn của loại hình này không chỉ ở cảnh quan hay văn hóa, mà còn ở sự hòa quyện giữa phát triển sinh kế du lịch và sinh kế bản địa. Chính sự khác biệt ấy là yếu tố giúp đồng bào dân tộc thiểu số phát triển du lịch bền vững.

Du lịch "mở đường" tiêu thụ sản phẩm của bà con vùng dân tộc (Ảnh: Đức Hiếu)
Đưa sản phẩm bản địa thành linh hồn của tour du lịch
- Việc gắn phát triển du lịch với tiêu thụ sản phẩm đặc trưng địa phương được xem là hướng đi bền vững. Theo ông, cần làm gì để sản phẩm bản địa thực sự trở thành “linh hồn” trong mỗi tour du lịch?
Ông Phạm Hải Quỳnh: Trong phát triển du lịch bền vững, nông sản địa phương đóng vai trò quan trọng. Chúng tôi triển khai theo hai hướng: xây dựng giá trị khác biệt về văn hóa và hoàn thiện giá trị nông sản bản địa để đưa vào chuỗi du lịch.
Tôi từng “nằm vùng” sáu tháng ở Tả Phìn, phát hiện 28 món ăn chế biến từ thảo dược của người Dao đỏ, biến chúng thành sản phẩm du lịch độc đáo. Muốn làm được như vậy, sản phẩm phải được quy chuẩn hóa, chứng nhận và đủ tiêu chí để thương mại hóa.
Cùng với đó, ứng dụng công nghệ giúp bà con bán hàng trên sàn thương mại điện tử, livestream hay kết nối với đại lý là cách cân bằng giữa sinh kế du lịch và sinh kế nông sản. Khi người dân chủ động tiêu thụ sản phẩm, họ vừa tăng thu nhập, vừa góp phần xây dựng thương hiệu địa phương.
Chỉ khi hai nhóm sinh kế – du lịch và bản địa được kết nối chặt chẽ, sản phẩm địa phương mới trở thành “linh hồn” của tour du lịch và là câu chuyện văn hóa hấp dẫn du khách.
Khai thác nội lực cộng đồng để lan tỏa giá trị bản địa
- Ngành du lịch hiện đang có nhiều hoạt động hỗ trợ các địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khai thác hiệu quả mối liên kết du lịch – nông sản – văn hoá. Ông đánh giá gì về hiệu quả của các hoạt động này trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm?
Ông Phạm Hải Quỳnh: Các mô hình liên kết đang mang lại hiệu ứng rất tích cực. Nhiều địa phương huy động sức dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, học sinh cùng tham gia chỉnh trang bản làng, trồng hoa, làm sạch môi trường… tạo diện mạo mới đầy sức sống.
Quan trọng hơn, đó là hình thức “marketing cộng đồng”: người dân tự chia sẻ hình ảnh, du khách check-in, đánh giá trên mạng xã hội giúp quảng bá điểm đến và sản phẩm địa phương mà không tốn chi phí.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các tour tuyến trải nghiệm gắn với nông sản giúp hàng hóa của bà con tiếp cận thị trường nhanh hơn. Khi mô hình này được nhân rộng, nông sản vùng cao có cơ hội vươn xa, người dân có thêm nguồn thu, góp phần giữ nghề và làm du lịch bền vững.

Việc xây dựng các tour tuyến trải nghiệm gắn với nông sản giúp hàng hóa của bà con tiếp cận thị trường nhanh hơn (Ảnh minh hoạ)
Số hóa bản làng: Hướng đi tất yếu của du lịch cộng đồng
- Theo ông, để đưa du lịch cộng đồng vùng dân tộc thiểu số trở thành ngành kinh tế mũi nhọn gắn với tiêu thụ sản phẩm đặc trưng, cần ưu tiên những giải pháp gì?
Ông Phạm Hải Quỳnh: Muốn du lịch cộng đồng thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chúng ta cần có “câu chuyện riêng” cho từng bản làng, từng sản phẩm, từng vùng văn hóa. Thay vì chỉ quảng bá cảnh quan, hãy kể câu chuyện về con người, ẩm thực, lễ hội, trò chơi dân gian – những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn.
Bước tiếp theo là chuyển đổi số. Tôi đang xây dựng mô hình “bản làng số hóa”: du khách chỉ cần quét mã QR để xem toàn bộ thông tin về lịch sử, phong tục, sản phẩm, thậm chí tham quan 360 độ các địa điểm. Mỗi câu chuyện văn hóa sẽ được kể bằng hình ảnh và âm thanh sống động.
Chúng tôi cũng “game hóa” trải nghiệm, để du khách trở thành một thành viên trong làng - đi hái ngô, nấu rượu, chơi trò dân gian... Khi được trải nghiệm thật, họ sẽ nhớ lâu và sẵn sàng quay lại.
Cốt lõi vẫn là đưa cộng đồng vào vai trò trung tâm. Khi người dân trực tiếp hưởng lợi từ du lịch, họ sẽ chủ động gìn giữ văn hóa, phát triển sinh kế và đồng hành cùng mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Xin cảm ơn ông!
Du lịch cộng đồng là hành trình kết nối văn hóa, kinh tế và con người. Khi mỗi sản phẩm bản địa trở thành câu chuyện kể sống động, mỗi bản làng được số hóa và lan tỏa bằng sức mạnh cộng đồng, du lịch vùng dân tộc thiểu số Việt Nam sẽ vươn lên mạnh mẽ, vừa bảo tồn giá trị truyền thống, vừa mở ra tương lai phát triển bền vững.