
Tin nóng:
Chủ động tuân thủ xuất xứ
Những năm gần đây, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ, vươn lên nhóm quốc gia hàng đầu về chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ. Riêng với nhóm sản phẩm nội, ngoại thất, Việt Nam hiện đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Thành quả này phản ánh năng lực sản xuất, đồng thời cũng đặt doanh nghiệp trước những yêu cầu ngày càng cao về tính tuân thủ xuất xứ và nguồn gốc hợp pháp.

Ngành gỗ tuân thủ sớm tiêu chuẩn xuất xứ từ các thị trường nhập khẩu. Ảnh minh hoạ
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, nhìn nhận rất rõ điều này khi cho rằng: “Sản phẩm gỗ gắn trực tiếp với rừng vốn là một bộ phận rất nhạy cảm của môi trường sống. Vì vậy, mặt hàng gỗ Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường lớn đều bị kiểm tra rất kỹ để đảm bảo tính hợp pháp, không gây mất rừng và không gây suy thoái rừng”.
Thực tế, ngành gỗ Việt Nam đã có những hành động mang tính nền tảng để đáp ứng yêu cầu đó. Việc ký kết Hiệp định Đối tác tự nguyện về Thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản với EU giúp khẳng định cam kết của Việt Nam trong quản trị rừng, thực thi pháp luật và thương mại gỗ bền vững. Trong nước, từ năm 2014, Việt Nam đã đóng cửa rừng tự nhiên, chuyển hẳn sang khai thác từ rừng trồng. Hiện, toàn bộ nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ xuất khẩu chủ yếu đến từ gần 3 triệu ha rừng trồng keo và khoảng 1 triệu ha rừng cao su.
Song song với đó, Việt Nam cũng chủ động chuẩn bị để thực thi các quy định mới của EU về sản phẩm không gây mất rừng, không suy thoái rừng. “Trong tất cả các tiến trình quốc tế, Việt Nam đều cam kết và thực hiện rất nghiêm túc”, ông Hoài nhấn mạnh.
Ở góc độ thị trường, Hoa Kỳ hiện là điểm đến lớn nhất của gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam, kim ngạch trên 8 tỷ USD mỗi năm, chiếm khoảng 55% tổng xuất khẩu toàn ngành. Đây là thị trường quan trọng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Xuất khẩu tăng nhanh khiến mặt hàng gỗ của Việt Nam thường xuyên đối mặt với các cuộc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và chống lẩn tránh thuế.
Theo ông Hoài, trong bối cảnh đó, việc tuân thủ đầy đủ quy định về xuất xứ, kể cả thông qua C/O, là biện pháp tự bảo vệ doanh nghiệp. “Trước đây, nhiều khách hàng tại Hoa Kỳ không coi C/O là yêu cầu bắt buộc, doanh nghiệp tự chứng nhận và tự chịu trách nhiệm. Nhưng chính điều này lại phát sinh rủi ro, nhất là khi xuất hiện hiện tượng lẩn tránh xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp. Hoa Kỳ buộc phải siết chặt hơn, nếu không sẽ rất khó kiểm soát”, ông phân tích.
Không chỉ ngành gỗ, câu chuyện tuân thủ xuất xứ, đảm bảo truy xuất nguồn gốc cũng đang đặt ra ngày càng rõ nét với những ngành hàng nông sản. Bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, cho biết, dù đã tham gia hội nhập hơn 25 năm, doanh nghiệp trong ngành vẫn gặp không ít thách thức khi đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững và truy xuất nguồn gốc.
“Thị trường EU hiện có hơn 535 tiêu chí về kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Chúng tôi không coi đây là rào cản, mà là yêu cầu tự nhiên của thị trường trong xu thế tiêu dùng sạch, an toàn cho sức khỏe, doanh nghiệp buộc phải đồng hành”, bà Liên chia sẻ.
Lan toả mạnh, tăng uy tín
Chủ động tuân thủ xuất xứ là yêu cầu tất yếu, song với thực tế phần lớn doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, sự hỗ trợ của Nhà nước và hiệp hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Chủ động thực thi truy xuất nguồn gốc giúp ngành gia vị đa dạng hoá được thị trường xuất khẩu. Ảnh minh hoạ
Đánh giá về những cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Công Thương, đại diện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản cho rằng, việc Bộ Công Thương đưa lãnh đạo các cục, vụ về địa phương hỗ trợ doanh nghiệp là “rất tốt và rất thiết thực”. Nhiều thủ tục, trong đó có cấp C/O, đang được triển khai theo hướng điện tử, trực tuyến, hậu kiểm và phân cấp mạnh hơn, góp phần giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn chỉ ra những vướng mắc trong giai đoạn chuyển tiếp. “Chỉ cần sai lệch về địa chỉ doanh nghiệp giữa đăng ký kinh doanh, hóa đơn và hồ sơ thuế là việc hoàn thuế đã bị chậm lại. Đây là khó khăn rất cụ thể mà doanh nghiệp đang gặp”, ông nói và cho rằng cần sớm có hướng dẫn thống nhất, rõ ràng để doanh nghiệp không bị lúng túng.
Ở lĩnh vực nông sản, bà Liên cho hay, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp khi tuân thủ xuất xứ và tiêu chuẩn từ các hiệp định thương mại tự do là hạn chế về nguồn lực tài chính. “Một chứng chỉ quốc tế có thể mất 20.000 – 30.000 USD mỗi năm. Với doanh nghiệp nhỏ, đây là gánh nặng rất lớn”, bà nêu thực tế.
Bên cạnh đó, hệ thống phòng thí nghiệm trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu quốc tế. Hiện, chỉ có hai phòng lab được nhà nhập khẩu lớn chấp nhận là SGS và Eurofins. “Chi phí test lại rất cao, từ 3 - 5 triệu đồng mỗi mẫu. Nhà nước cần đầu tư phòng lab đạt chuẩn tại địa phương để hỗ trợ doanh nghiệp, thay vì để toàn bộ thị trường rơi vào tay phòng lab nước ngoài”, bà Liên kiến nghị.
Ở góc độ xúc tiến thương mại, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), nhiều lần nhấn mạnh vai trò của việc đồng hành cùng doanh nghiệp trong đáp ứng các yêu cầu thị trường. Ông khẳng định: “Ngành gỗ và lâm sản là một trong những ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Để đạt mục tiêu kim ngạch trên 18 tỷ USD, ngoài xuất khẩu, thị trường nội địa cũng phải được đặt vào trọng tâm chiến lược”.
Theo đại diện Cục Xúc tiến thương mại, cùng với việc hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, cần đẩy mạnh truyền thông đối ngoại, nghiên cứu thị trường, đào tạo về thiết kế, thương mại điện tử và chuyển đổi xanh. Những hoạt động này không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ tốt hơn quy định xuất xứ, mà còn nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của hàng Việt.
Một số ngành hàng chủ động đầu tư, tuân thủ nghiêm túc các quy định về xuất xứ. Đại diện các hiệp hội mong muốn truyền thông đối ngoại của Việt Nam đẩy mạnh tuyên truyền hơn nữa điều này nhằm lan toả tinh thần này, đồng thời tăng uy tín cho hàng Việt.