
Tin nóng:
Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ sáu 21/03/2025 14:01
Tin nóng:
Giá chè xuất khẩu giảm nhẹ, chè đen dẫn đầu chủng loại
Theo báo cáo của Trung tâm Thông tin Công nghiệp và thương mại ( Bộ Công Thương), trong tháng 6/2025, Việt Nam xuất khẩu khoảng 11,5 nghìn tấn chè, trị giá 20,5 triệu USD, tăng 6,5% về lượng và tăng 9,7% về trị giá so với tháng 5/2025. Tuy nhiên, so với cùng kỳ tháng 6/2024, xuất khẩu giảm 18% về lượng và giảm 23,9% về trị giá.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, lượng chè xuất khẩu đạt 57,9 nghìn tấn, trị giá 97 triệu USD, giảm lần lượt 6,6% và 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.674 USD/tấn, giảm nhẹ 2%.
Sản lượng và giá trị xuất khẩu chè giảm nhẹ trong 6 tháng đầu năm, song triển vọng phục hồi đang mở ra nhờ nhu cầu tăng từ các thị trường trọng điểm và chiến lược nâng cấp sản phẩm của doanh nghiệp Việt. Ảnh minh hoạ
Chủng loại xuất khẩu tập trung chủ yếu vào chè đen và chè xanh, chiếm tới 95,4% tổng lượng chè xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm. Cụ thể, chè đen đạt 22,8 nghìn tấn, trị giá 29,7 triệu USD, tăng 2,2% về lượng và 1,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Chè xanh đạt 21,6 nghìn tấn, trị giá 40,3 triệu USD, giảm 8,5% về lượng và giảm 8% về trị giá.
Một số chủng loại khác có tỷ trọng thấp nhưng ghi nhận diễn biến đáng chú ý. Chè ô long đạt 461 tấn, trị giá 1,7 triệu USD, tăng 23,2% về lượng và 24,7% về trị giá. Ngược lại, chè ướp hoa giảm mạnh 54,1% về lượng và 56,5% về trị giá.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong 5 tháng đầu năm đạt 1.646,5 USD/tấn, nhỉnh hơn 0,1% so với cùng kỳ. Đây là tín hiệu tích cực trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia sản xuất chè lớn như Ấn Độ, Kenya, Sri Lanka.
Biến động giá qua các tháng cho thấy xu hướng phục hồi nhẹ. Từ mức thấp nhất 1.545,7 USD/tấn trong tháng 11/2024, giá chè dần phục hồi lên 1.693,7 USD/tấn vào tháng 5/2025.
Thị trường xuất khẩu phân hóa, nhiều dư địa tăng trưởng
Tính trong 5 tháng đầu năm 2025, Pakistan tiếp tục là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam với 13,8 nghìn tấn, trị giá 26,1 triệu USD, tăng 13,7% về lượng và 7,1% về trị giá. Đây là thị trường tiêu thụ ổn định, chuộng hương vị đậm và có giá cả phù hợp.
Tiếp theo là Trung Quốc, nhập khẩu 4,9 nghìn tấn, trị giá 7,7 triệu USD, tăng 4,6% về lượng và 14,6% về trị giá. Đài Loan đứng thứ ba với 4,6 nghìn tấn, trị giá 7,9 triệu USD. Một số thị trường khác như Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Nga, Mỹ, Iran và Iraq đều ghi nhận mức nhập khẩu đáng kể.
Đáng chú ý, thị trường Iraq tăng trưởng mạnh, với 1.743 tấn và 2,7 triệu USD, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Ả Rập Xê Út và Ấn Độ cũng có mức tăng ấn tượng, lần lượt tăng 53,6% và 52% về lượng.
Ngược lại, một số thị trường sụt giảm đáng kể như Iran (giảm 61,2% về lượng), UAE (giảm 55%), Ba Lan (giảm 55,6%) và Papua New Guinea (giảm 88,2%).
Thị phần chè Việt tại các thị trường nhập khẩu lớn như Thổ Nhĩ Kỳ và Anh vẫn còn rất nhỏ. Trong 4 tháng đầu năm, Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 5,9 nghìn tấn chè (trị giá 13,7 triệu USD), trong đó Việt Nam chỉ chiếm 0,14%. Tại Anh, Việt Nam chỉ cung cấp 0,2% tổng lượng chè nhập khẩu trong quý I/2025.
Thị trường thế giới cũng đang có nhiều biến động đáng chú ý. Tại Mỹ, chính sách thuế mới khiến chè Trung Quốc bị áp thuế đến 35%, làm giảm xuất khẩu 12,3% về lượng và 18,6% về trị giá trong 4 tháng đầu năm. Một số nước như Ấn Độ, Sri Lanka đã nhanh chóng tận dụng cơ hội để gia tăng xuất khẩu vào Mỹ.
Kenya, một trong những nước xuất khẩu chè lớn đang đối mặt với sụt giảm doanh thu do sản lượng giảm sau hạn hán, đồng thời đình chỉ chứng nhận Rainforest Alliance do chi phí cao. Trong khi đó, Azerbaijan vừa ban hành Luật Trồng chè, siết chặt quy định về sản xuất, chế biến và nhập khẩu chè, trong đó cấm nhập khẩu chè biến đổi gen.
Nâng chất, dựng thương hiệu, chủ động thị trường
Ngành chè Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, mở rộng thị trường và phát triển bền vững, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương) khuyến nghị các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất cần chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất được khuyến nghị nâng cao chất lượng, mở rộng kênh tiếp thị và chủ động đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Ảnh minh hoạ: Ánh Phương
Theo đó, việc đảm bảo sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP là hết sức cần thiết. Khuyến khích phát triển các vùng nguyên liệu hữu cơ và áp dụng phương pháp canh tác an toàn sẽ góp phần tăng giá trị cho sản phẩm chè, đồng thời phù hợp với xu hướng tiêu dùng bền vững.
Bên cạnh yếu tố chất lượng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng trong nước và quốc tế về giá trị chè Việt Nam. Việc tận dụng hiệu quả các nền tảng thương mại điện tử và các hình thức tiếp thị trực tuyến sẽ giúp mở rộng khả năng tiếp cận thị trường, đặc biệt trong bối cảnh xu hướng mua sắm đang dịch chuyển mạnh sang môi trường số.
Ngoài ra, đầu tư công nghệ chế biến hiện đại là hướng đi quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất, nhất là đối với các dòng chè cao cấp như chè ô long, chè matcha. Việc hình thành chuỗi liên kết bền vững giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp cũng sẽ góp phần nâng cao năng suất và giảm thiểu rủi ro thị trường.
Song song với các giải pháp sản xuất và tiếp thị, doanh nghiệp cần chủ động tham gia các hội thảo, diễn đàn chuyên ngành để cập nhật thông tin, xu hướng và chính sách mới của thị trường. Việc theo dõi sát tình hình xuất nhập khẩu, đặc biệt tại các thị trường tiềm năng như Mỹ, EU và các nước Đông Nam Á, sẽ giúp doanh nghiệp điều chỉnh kịp thời chiến lược xuất khẩu, đồng thời bảo đảm tuân thủ các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn và chứng nhận sản phẩm.
Trước biến động thị trường, doanh nghiệp được khuyến nghị nâng cao chất lượng, mở rộng kênh tiếp thị, tăng cường chế biến sâu và chủ động đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.