Tin nóng:
Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ ba 05/11/2024 12:47
Tin nóng:
Áp lực từ EUDR và nguồn cung: Giá cà phê còn biến động ra sao? Ủy ban châu Âu gia hạn thời gian thực hiện quy định EUDR, giá cà phê tiếp tục giảm Thị trường cà phê thế giới chao đảo vì EUDR |
Việt Nam trước ngưỡng cửa mới của quy định chống phá rừng EU
Ngày 2/10, Ủy ban châu Âu (EC) đã công bố đề xuất hoãn thực thi Quy định chống phá rừng (EUDR). Theo dự kiến, EUDR sẽ bắt đầu thực thi vào tháng 1/2025. Luật cấm nhập khẩu vào EU những mặt hàng nông sản có quy trình sản xuất làm giảm diện tích rừng, nhằm hạn chế các sản phẩm liên quan đến phá/suy thoái rừng vào thị trường EU, đồng thời khuyến khích mua bán các mặt hàng hợp pháp và không gây phá rừng.
Những sản phẩm bị ảnh hưởng bởi các quy định của luật bao gồm thịt bò, cà phê, ca cao, gỗ, cao su, đậu tương và dầu cọ. Do sự phản đối của nhiều bên liên quan, EC đã đưa ra đề xuất hoãn thực thi luật đối với các doanh nghiệp lớn đến ngày 30/12/2025 và đến ngày 30/6/2026 đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong số 7 nhóm hàng liên quan đến quy định EUDR, Việt Nam có 3 nhóm hàng chịu tác động chính là cao su, cà phê và gỗ. Chính vì vậy, ngay từ khi EUDR được thông qua, Việt Nam đã tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của quy định này.
Trao đổi với Báo Công Thương, ông Vũ Tấn Phương - Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO) chia sẻ: “Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là những đơn vị sản xuất cao su tiểu điền, vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu này. Một số doanh nghiệp chưa nắm rõ các quy định và không có đủ nguồn lực để triển khai hệ thống quản lý hiệu quả. Điều này cho thấy, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ phía nhà nước và các hiệp hội doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin và thực hiện các biện pháp tuân thủ”.
Mặc dù rủi ro gây mất rừng có liên quan tới khâu sản xuất của 3 mặt hàng cà phê, gỗ, cao su tại Việt Nam đều không lớn, do diện tích canh tác nhìn chung đã ổn định, nhưng hiện vẫn còn tồn tại một số vấn đề về chuỗi cung làm cản trở tới khả năng truy xuất nguồn gốc, ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro của EU theo quốc gia, vùng sản xuất.
Hiện đất trồng cà phê đa phần là đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ sử dụng lâu dài. Mặc dù có tới 40% diện tích đất trồng cà phê tại Việt Nam đã được cấp chứng chỉ sản xuất bền vững, nhưng có những diện tích mở rộng trên nền đất rừng kể từ sau năm 2003 đến nay vẫn chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất.
Với gỗ rừng trồng, hiện đã có trên 60% số hộ trồng rừng đã được nhận giấy chứng nhận sử dụng đất. Hầu hết các công ty lâm nghiệp nhà nước đã có giấy chứng nhận sử dụng đất. Tuy vậy, diện tích rừng sản xuất có chứng chỉ bền vững hiện đạt khoảng dưới 10% tổng diện tích rừng sản xuất.
Cả ba ngành hàng cà phê, gỗ, cao su có một số đặc điểm chung khá tương đồng. Một là, nông hộ đóng vai trò chủ đạo trong khâu đầu của chuỗi. Hai là, đất sản xuất tương đối manh mún; ba là, chuỗi cung thường dài, với nhiều bên tham gia.
Rủi ro gây mất rừng có liên quan tới khâu sản xuất của 3 mặt hàng cà phê, gỗ, cao su tại Việt Nam đều không lớn, do diện tích canh tác nhìn chung đã ổn định. Ảnh: Vneconomy |
Với ngành cao su, tổng diện tích cây cao su tại Việt Nam hiện khoảng 918 ngàn ha, với khoảng 300 nghìn hộ tiểu điền tham gia trồng trên diện tích và lượng cung chiếm trên 50% trong tổng diện tích và tổng lượng cung của toàn ngành. Còn lại là do gần 100 công ty nhà nước chủ yếu thuộc Tập đoàn Cao su Việt Nam và UBND các tỉnh. Đất giao cho các công ty cao su nhà nước hầu hết đã có “sổ đỏ”, nhưng hiện chưa có thông tin về tình trạng giấy chứng nhận sử dụng đất của hộ trồng cao su.
"Doanh nghiệp ở Việt Nam, đang sản xuất ở Việt Nam phải tuân thủ tất cả các luật pháp do Việt Nam quy định bao gồm: Quyền sử dụng đất hợp pháp; vấn đề về lao động; chứng minh các vấn đề bảo vệ môi trường như đánh giá tác động môi trường, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phải tuân thủ luật pháp… Thêm vào đó, doanh nghiệp phải có hệ thống trách nhiệm giải trình (DDS) để đảm bảo tính minh bạch và tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của EUDR", ông Phương cho biết.
Thách thức và cơ hội của Việt Nam trước quy định EUDR
Khâu tiêu thụ cà phê, gỗ, cao su đều phụ thuộc vào đội ngũ thu mua, thương lái đông đảo, hoạt động ở nhiều cấp khác nhau, như thôn, xã huyện, tỉnh…
Hoạt động tại các khâu trung gian phức tạp, chưa tuân thủ với các yêu cầu của Nhà nước. Khúc mắc trong việc hoàn thuế VAT của các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu đầu vào của các mặt hàng này, đặc biệt là đối với các mặt hàng gỗ trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình thể hiện tính phức tạp, không tuân thủ các yêu cầu pháp lý của các khâu trong chuỗi.
Trước khi EUDR chính thức đi vào thực thi, Việt Nam cần chủ động thiết lập kênh kết nối trực tiếp với EU nhằm cung cấp thông tin, thảo luận về các tiêu chí phân loại nhằm thống nhất về các tiêu chí phân loại quốc gia. Điều này góp phần giảm thiểu các thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam trong tương lai.
“Tôi cho rằng, khả năng tiếp cận của doanh nghiệp không phải quá khó, tuỳ thuộc mức độ hỗ trợ của Nhà nước, hiệp hội, ngành hàng như thế nào để doanh nghiệp họ tiếp cận được thông tin về các tiêu chuẩn này”, ông Phương nhận định.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và hiệp hội, ngành hàng cần tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện chuỗi cung ứng của ba ngành hàng kể trêm. Trên cơ sở đó, xây dựng và triển khai các giải pháp nhằm tăng cường tính bền vững và minh bạch của chuỗi cung, đặc biệt tập trung vào các yếu tố như nguồn gốc xuất xứ, vị trí địa lý và khả năng truy xuất nguồn gốc. Qua đó, chủ động cung cấp thông tin chi tiết, chính xác về thực trạng của ba mặt hàng này, góp phần nâng cao hiểu biết của EU về các ngành hàng này của Việt Nam.
Việc thực hiện EUDR là một thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội cho Việt Nam trong việc cải thiện quy trình quản lý và nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Thông qua các hành động cụ thể và chiến lược phối hợp chặt chẽ, Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng yêu cầu của EU cũng như các thị trường xuất khẩu lớn khác trong tương lai. Sự đồng lòng và chủ động từ tất cả các bên liên quan sẽ là yếu tố quyết định cho thành công trong việc góp phần thúc đẩy EU có những đánh giá khách quan về Việt Nam về các khía cạnh rủi ro khi phân loại quốc gia, vùng sản xuất. Điều này không chỉ quan trọng đối với việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR, mà còn để chuẩn bị cho việc đáp ứng các yêu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn khác của Việt Nam như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Canada, Australia…