
Tin nóng:
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) chia sẻ với Báo Công Thương về những kế hoạch xây dựng hệ sinh thái tận dụng FTA, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

Các FTA mở rộng cơ hội để hàng hóa Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường tiềm năng. Ảnh minh họa
Tăng cường kết nối tận dụng FTA
- Thưa ông, Bộ Công Thương đã triển khai Đề án xây dựng hệ sinh thái tận dụng FTA, tiến độ đến nay ra sao?
Ông Ngô Chung Khanh: Sau khi được lãnh đạo Chính phủ cho phép, Bộ Công Thương đã xây dựng ý tưởng về Đề án hệ sinh thái tận dụng FTA, trong đó yêu cầu quan trọng là phải có sự trao đổi với các địa phương và các ngành hàng. Trong đầu năm 2025, chúng tôi tập trung xây dựng dự thảo đề án. Đến tháng 8/2025, chúng tôi hoàn thành dự thảo và gửi xin ý kiến tất cả các tỉnh, thành phố, các bộ, ngành và các hiệp hội.
Đến nay, tổng cộng đã nhận được ý kiến của gần 30 tỉnh, hơn 10 bộ, ngành và khoảng một nửa số hiệp hội. Mục tiêu của chúng tôi là sẽ hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ, với kỳ vọng có được các quy chuẩn cần thiết để triển khai công việc từ đầu năm 2026.
Qua các cuộc trao đổi, doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm và sự thiết tha rất lớn. Trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta cần đa dạng hóa thị trường và tận dụng tối đa các FTA hiện có, việc tăng cường kết nối để giúp doanh nghiệp tối ưu hóa các mối quan hệ và nguồn lực hiện có của đất nước hết sức quan trọng.
- Được biết ở trên thế giới có một số mô hình hỗ trợ kết nối doanh nghiệp, vậy theo ông đâu là những bài học kinh nghiệm cần rút ra cho Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ sinh thái tận dụng FTA?
Ông Ngô Chung Khanh: Về các mô hình quốc tế, Bộ Công Thương cũng đã mời một số chuyên gia quốc tế từ Singapore và Úc chia sẻ về các mô hình quốc tế. Họ đều khẳng định rằng mô hình tận dụng hệ sinh thái FTA theo cách tiếp cận này hiện chưa có. Trên thế giới vẫn tồn tại các mô hình kết nối, tuy nhiên, về cơ bản, các mô hình kết nối này chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, chủ yếu là kết nối giữa các doanh nghiệp với nhau.
Điểm mà chúng tôi nghiên cứu và có thể tận dụng được từ các mô hình đó là yếu tố số hóa. Điều quan trọng nhất là họ số hóa các quy trình kết nối, số hóa việc thu thập dữ liệu nhằm thúc đẩy trao đổi dữ liệu nhanh hơn, cụ thể hơn và hợp lý hơn. Chúng tôi cho rằng đây là những điểm có thể học hỏi để đưa công nghệ và số hóa vào hệ sinh thái, hướng đến tiếp cận doanh nghiệp cần thông tin phải nhanh, cụ thể, chính xác và rõ ràng.
Ngoài ra, trọng tâm hiện nay là làm thế nào giúp doanh nghiệp hình dung được một chuỗi cung ứng từ đầu vào cho đến khi xuất khẩu. Điều này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh các thị trường nhập khẩu ngày càng quan tâm đến việc sản phẩm có đáp ứng quy chuẩn và các tiêu chuẩn về phát triển bền vững hay không.
Các thị trường không chỉ dựa vào tờ khai C/O, bởi sau khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, các cơ quan quản lý nhập khẩu vẫn có thể tiến hành kiểm tra. Nếu có một hệ sinh thái với quy trình cụ thể, rõ ràng, minh bạch, khoa học, có số hóa và kết nối, thì chỉ cần truy cập vào phần mềm là có thể nhìn thấy toàn bộ quy trình, từ hóa đơn ở từng khâu, đơn vị nhập nguyên liệu, đơn vị sản xuất đến quy trình sản xuất của doanh nghiệp.

Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương). Ảnh: Diệu Anh
Tăng tốc đưa hệ sinh thái vào thực tiễn
- Bộ Công Thương có định hướng như thế nào để tích hợp cơ sở dữ liệu Hiệp định EVFTA vào hệ sinh thái tận dụng FTA, đây sẽ là cơ hội giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường EU một cách tốt hơn?
Ông Ngô Chung Khanh: Thị trường EU thường được gọi là thị trường khó tính. Tại khu vực này, bên cạnh yếu tố kinh tế, Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về phát triển bền vững, lao động và môi trường. Xét các yếu tố khách quan, đời sống của người dân châu Âu cao hơn nhiều khu vực khác, vì vậy yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm cũng cao hơn. Từ đó, họ phải đặt ra các tiêu chuẩn và quy định cụ thể. Doanh nghiệp Việt Nam muốn đưa hàng vào EU phải đáp ứng được các tiêu chuẩn đó.
Trong hệ sinh thái, chúng tôi hướng đến tạo ra một nguồn lực chung, thay vì doanh nghiệp phải tự đi tìm thông tin, tự làm việc thì sẽ có sự hỗ trợ từ hệ sinh thái. Thế mạnh đó là sự tham gia của tập thể, không chỉ là tập thể doanh nghiệp mà còn là sự chung tay của các cơ quan quản lý, của cả các doanh nghiệp ngoài ngành. Về cơ bản, các nguồn lực này sẽ được kết nối chặt chẽ có chuyên gia hỗ trợ về thông tin, có các nguồn tài chính phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp. Đó chính là mục tiêu của việc xây dựng hệ sinh thái.
- Trong giai đoạn nước rút hoàn thiện dự án, Bộ Công Thương sẽ có những giải pháp, định hướng tiếp theo như thế nào để về hệ sinh thái này thực sự trở thành trợ thủ cho doanh nghiệp?
Ông Ngô Chung Khanh: Để đưa hệ sinh thái đi vào thực tiễn, trước hết, mục tiêu đầu tiên là khẩn trương tổng hợp đầy đủ ý kiến của tất cả các bộ, ngành, địa phương và các hiệp hội. Tuy nhiên điểm mấu chốt để đề án đi vào cuộc sống là phải xác định rất rõ kế hoạch hành động chi tiết, bao gồm nhiệm vụ cho từng bộ, ngành, các tỉnh, thành phố và các hiệp hội.
Bên cạnh đó, một vấn đề không kém phần quan trọng, tôi cho rằng đó là mấu chốt để bảo đảm hệ sinh thái và hợp tác vận hành hiệu quả, đó là con người. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp có khả năng xây dựng một nền tảng vận hành, lên ý tưởng và chuẩn bị nguồn tài chính. Nhưng điều quan trọng là cần con người để vận hành, con người để kết nối, con người để biến những ý tưởng đó đi vào cuộc sống. Đội ngũ này phải có trình độ, có kỹ năng và rất sát sao với doanh nghiệp thì mới bảo đảm hiệu quả. Đây là một thách thức cần phải xử lý.
Ngoài ra, cần tiếp tục triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin theo kế hoạch thực hiện các FTA thế hệ mới và nâng cấp Cổng thông tin điện tử Hiệp định Thương mại tự do của Việt Nam (FTAP); tăng cường việc triển khai đồng bộ công tác hội nhập kinh tế quốc tế đến các địa phương qua Bộ chỉ số đánh giá kết quả thực thi các FTA của các địa phương (FTA Index)...
- Xin cảm ơn ông!
Theo kế hoạch đã dự kiến, với sự quyết liệt vào cuộc, đến khoảng tháng 6/2026, hệ sinh thái kết nối FTA có thể đi vào hoạt động với một đội ngũ nhân sự đầy đủ, có cơ sở vật chất có cơ cấu tổ chức rõ ràng, quy định và nội quy đầy đủ, chặt chẽ, sự tham gia, kết nối và phối hợp khoa học.